I. Đại cương
– Gãy cẳng chân là gãy một hoặc hai xương cẳng chân, bao gồm tất cả các loại gãy đi từ mâm chày tới mắt cá chân.
– Gãy thân 2 xương cẳng chân là loại gãy dưới nếp gấp gối 5cm và trên nếp gấp cổ chân 5cm.
* Giải phẫu:
– Xương chày hình lăng trụ tam giác khi xuống 1/3 dưới là hình tròn => điểm yếu
– Mạch nuôi xương càng xuống thấp càng nghèo nàn khi gãy khó liền
– Các cơ bố trí quanh xương không đồng đều => dễ gãy hở
– Cẳng chân có bốn khoang. Cấu tạo các khoang hẹp, thành khoang chắc vì vậy khi có phù nề, chảy máu trong khoang dễ gây hội chứng chèn ép khoang-một biến chứng nguy hiểm, nguy cơ cụt chân cao.
– Gãy cao dễ gây chèn ép khoang, gãy thấp dễ dẫn đến gãy hở.
* Lâm sàng
– Đau vùng gãy, có thể sốc
– Mất cơ năng cẳng chân
– Gấp góc cẳng chân
– Sờ thấy đầu xương gãy di lệch ngay dưới da
– Cẳng bàn chân xoay đổ ra mặt giường
– Đo thấy ngắn chi
– Tình trạng lớp da: bầm dập, nguy cơ hoại tử, nếu có vết rách có thông ổ gãy
* Hội chứng chèn ép khoang
+ Đau quá mức thông thường
+ Căng cứng toàn bộ cẳng chân (còn gọi là HC bắp cẳng chân)
+ Tê bì, có cảm giác kiến bò ở đầu ngón, về sau không nhận biết được
+ Đau tăng khi vận động thụ động, căng giãn cơ bắp
+ Liệt vận động các ngón
=> Bình thường áp lực trong cơ bắp là 10mmHg và có thể lên 30mmHg trong thì tâm thu. > 30mmHg (30-50) theo dõi => mở cân cấp cứu
  NỘI DUNG WEB
» 422 Bài giảng chẩn đoán hình ảnh
» X-quang / Siêu âm / CT Scan / MRI
» 25.000 Hình ảnh case lâm sàng
  ĐỐI TƯỢNG
» Kỹ thuật viên CĐHA
» Sinh viên Y đa khoa
» Bác sĩ khối lâm sàng
» Bác sĩ chuyên khoa CĐHA
  Nội dung Bài giảng & Case lâm sàng thường xuyên được cập nhật !
  Đăng nhập Tài khoản để xem Nội dung Bài giảng & Case lâm sàng !!!
– Cơ chế chấn thương phổ biến nhất liên quan đến lực nén theo trục dọc (ví dụ ngã cao). Ở bệnh nhân trẻ tuổi, kiểu gãy phổ biến nhất là gãy tách, trong khi ở bệnh nhân lớn tuổi, loãng xương, thường gặp gãy lún. – Type 1: Gãy hình nêm của mâm chày ngoài ít di lệch, không lún. – Bề mặt mâm chày không nhẵn. => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: => Case lâm sàng 3: => Case lâm sàng 4: – Gãy Segond là một vết gãy giật liên quan đến mâm chày ngoài và thường xuyên (~75%) liên quan đến đứt dây chằng chéo trước (ACL) và rách sụn chêm (66-75%). – Gãy Segond đảo ngược: Năm 1997, Hall và Hochman đã báo cáo về một bệnh nhân bị gãy Segond đảo ngược ở mâm chày trong. Loại gãy này thường liên quan chấn thương dây chằng chéo sau và sụn chêm trong. – Rộng khoảng cách giữa hai đường mỡ trước xương đùi và đệm mỡ trên xương bánh chè: khoảng cách giữa 2 đường mỡ chính là độ dày trước sau của túi hoạt dịch trên xương bánh chè. => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: – Xóa mờ đường viền rõ nét của bờ sau gân cơ tứ đầu đùi. – Đẩy gân cơ tứ đầu đùi và xương bánh chè ra phía trước: khi lượng dịch > 20ml, tạo bóng mờ hình quả lê trên xương xương bánh chè. – Mức dịch máu – mỡ (Lipohaemarthrosis) + Vỡ xương thấu khớp, mỡ và máu từ tủy xương chảy vào ổ khớp tạo thành mức dịch máu-mỡ (Phim chụp tia X chiếu ngang). + Trên CLVT có thể thấy 2 mức ngang của 3 thành phần: mỡ – thanh dịch – tế bào máu. => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: – Bong điểm bám dây chằng chéo trước (Anterior cruciate ligament avulsion fracture) là một hình thái tổn thương thường gặp trong chấn thương khớp gối, xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng tuổi thanh thiếu niên gặp nhiều hơn. – Phân loại (Mayer và Mc Keevers) – Đặc điểm hình ảnh: => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: => Case lâm sàng 3: => Case lâm sàng 4: => Case lâm sàng 5: – Những chấn thương này thường gặp trong các tai nạn xe máy hoặc ô tô khi lực đẩy ra sau tác động lên xương chày trong tư thế gập gối. Chúng cũng được thấy ở những người nhảy và tiếp đất bằng bàn chân gập lòng vào trong khi đầu gối đang gập, thường trong bối cảnh thể thao (đặt xương chày dưới lực đẩy ra sau). – Đặc điểm hình ảnh: => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: => Case lâm sàng 3: => Case lâm sàng 4: – Trật khớp chày – mác (Tibiofibular joint dislocation) chủ yếu sau nhảy dù, trượt tuyết, cưỡi ngựa. Chỏm xương mác bị trật ra sau dễ làm tổn thương thần kinh mác. – Đặc điểm hình ảnh: bình thường trên phim thẳng và nghiêng chỏm xương mác có sự chồng lấn với mâm chày ngoài. => Case lâm sàng 1: – Gãy xương mắt cá chân chiếm khoảng 10% tổng số gãy xương gặp phải trong chấn thương, chỉ đứng sau gãy xương đùi gần ở chi dưới. * Phân loại Danis Weber – Loại A: => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: => Case lâm sàng 3: – Loại B: => Case lâm sàng 1: – Loại C: => Case lâm sàng 1: * Phân loại Lauge Hansen – Loại 1: gãy ngửa xoay ngoài, cổ chân bị vẹo xoay ngoài gây gãy chéo đầu dưới xương mác, rách dây chằng Delta ở mắt cá trong hay gãy ngang mắt cá trong. – Gãy Dupuytren là một dạng gãy xương vùng cổ chân, được Baron Dupuytren mô tả năm 1832, với tổn thương đặc trưng là gãy mắt cá trong, gãy xương mác 1/3 dưới, đứt dây chằng chày mác dưới, doãng mộng chày mác và bán trật khớp chày sên ra ngoài. Sau này, Weber, Lauge – Hansen cũng đã mô tả loại gãy này và đưa ra phân loại A, B, C. – Gãy thân hai xương cẳng chân là gãy ở vị trí dưới lồi củ trước xương chày 1cm hoặc dưới khớp gối ba khoát ngón tay hoặc dưới mặt khớp mâm chày khoảng 10cm đến trên khớp chày sên ba khoát ngón tay hoặc trên trần chày khoảng 7cm. * Cơ chế chấn thương – Cơ chế chấn thương trực tiếp: lực tác động trực tiếp ngay ổ gãy. Tổn thương phần mềm trong chấn thương trực tiếp thường nặng nề hơn chấn thương gián tiếp, thường gây gãy xương hở. * Phân loại theo AO/ ASIP – Độ A: Xương chày gãy đơn giản – Độ B: Xương chày gãy có mảnh rời – Độ C: Xương chày gãy phức tạp * Đặc điểm hình ảnh – Đường gãy xương thường dễ quan sát. => Case lâm sàng 1: – Thường ở 2/3 dưới xương chày. => Case lâm sàng 1: – Gãy khung nhún “Trampoline fracture” hay gãy ngang đầu trên xương chày, xảy ra ở trẻ em 2-5 tuổi khi nhảy trên tâm bát lò xo cùng với người có trọng lượng lớn => Sự giật lùi của tấm bạt lò xo sau khi người nặng hơn nhảy lên có thể tạo ra một lực lớn. => Case lâm sàng: => Case lâm sàng 1: – Gẫy Pilon là loại gẫy ở đầu dưới xương chày mà đường gãy đi vào diện khớp cổ chân – Đặc điểm hình ảnh: – Được đặt theo tên của Paul Jules Tillaux , bác sĩ phẫu thuật và nhà giải phẫu người Pháp (1834-1904). => Case lâm sàng 1: => Case lâm sàng 2: => Case lâm sàng 3: => Case lâm sàng 4: => Case lâm sàng 5: – Gãy xương ở trẻ mới biết đi là gãy xương xoắn ốc ít di lệch hoặc không di lệch. – Gãy xương Salter-Harris là một chấn thương liên quan tới sụn tăng trưởng của xương trẻ em. – Loại 1: đường gãy kéo dài qua sụn tiếp hợp, không liên quan tới xương, làm di lệch đầu xương => tăng bề rộng của vùng sụn tiếp hợp. – Loại 2: đường gãy đi qua phần lớn sụn tiếp hợp lan vào phần thân xương. – Loại 3: đường gãy đi qua một phần sụn tiếp hợp và xuống phần đầu xương. – Loại 4: đường gãy đi qua trực tiếp phần thân xương, sụn tiếp hợp và xuống phần đầu xương. – Loại 5: lực tác động theo trục dọc thân xương => lún sụn tiếp hợp.II. Vỡ mâm chày
– Chấn thương mô mềm (ví dụ như dây chằng chéo và dây chằng bên) xảy ra ở khoảng 10% bệnh nhân. 80% vỡ mâm chày ngoài: kèm đứt dây chằng bên trong hoặc 1 dây chằng chéo.
– Gãy mâm chày ngoài phổ biến hơn nhiều so với mâm chày trong. Để gây tổn thương mâm chày trong, cần một lực lớn; gãy mâm chày trong thường được thấy cùng với gãy mâm chày ngoài và các xương khác xung quanh khớp gối.* Phân loại Schatzker
– Type 2: Gãy hình nêm của mâm chày ngoài kèm lún (liên quan đến chấn thương dây chằng bên trong và sụn chêm trong).
– Type 3: Lún mâm chày ngoài
– Type 4: Gãy mâm chày trong với phần gãy tách ra
– Type 5: Gãy hình nêm của cả hai mâm chày
– Type 6: Gãy ngang của hành xương chày cùng với gãy mâm chày ngoài hoặc mâm chày trong* Đặc điểm hình ảnh
– Bờ xương chày di lệch
– Mảnh gãy lún có thể rõ ràng như một đường xơ cứng ngang dưới mức vỏ xương, không có đường gãy sáng.
– Tràn máu mỡ khớp nhìn thấy trên phim X-quang nghiêng tia đi ngang có thể là manh mối hữu ích cho các gãy xương không di lệch tinh vi.* Gãy Segond
– Lần đầu tiên được mô tả bởi Paul Ferdinand Segond , bác sĩ phẫu thuật người Pháp (1851-1912) dựa trên các thí nghiệm trên tử thi.
– Gãy xương là kết quả của sự xoay vào trong quá mức của xương chày so với xương đùi (cơ chế phổ biến nhất dẫn đến rách ACL) tạo ra lực căng bất thường dọc theo phần trung tâm của phức hợp bao khớp ngoài nơi xảy ra gãy xương.
– Hình dạng cổ điển của gãy Segond là một mảnh xương cong hoặc hình elip song song với mâm chày ngoài. Được nhìn thấy rõ nhất trên phim thẳng.* Tràn máu mỡ
+ > 10mm: chẩn đoán xác định (khi lượng dịch > 20ml).
+ 5-10mm: nghi ngờ, kết hợp siêu âm đánh giá.
+ < 5mm: không có tràn dịch khớp gối.* Bong điểm bám DCC trước
– Nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn xe máy, xe đạp hoặc chấn thương thể thao. Tổn thương này tạo bởi một lực tác động mạnh vào vùng gối làm căng đột ngột và quá mức dây chằng chéo trước, dẫn đến bong diện bám của dây chằng chéo trước khỏi diện mâm chầy (kiểu bật gốc). Diện bám này bao gồm mảnh sụn kèm xương dưới sụn-gọi chung là mảnh bám, mặc dù sự tách rời tại điểm bám xương đùi là hiếm gặp.
– Chấn thương này phổ biến hơn ở trẻ em từ 8-14 tuổi so với người lớn. Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng điều này có thể do xương chưa cốt hoá hoàn toàn yếu hơn so với các sợi dây chằng hoặc do dây chằng ở trẻ em có độ đàn hồi tương đối cao hơn.
+ Độ I: Không di lệch
+ Độ II: Di lệch một phần mảnh bám phía trước, trên phim Xquang chụp nghiêng giống hình mỏ chim
+ Độ III: Mảnh bám di lệch hoàn toàn khỏi diện bám, nhưng mảnh bám còn nguyên. IIIa: Chỉ bong đúng phần bám của dây chằng chéo trước. IIIb: Bong cả một phần của gai chầy phía sau.
+ Zariczynj thêm độ IV: Bong hoàn toàn, mảnh bám vỡ làm nhiều mảnh nhỏ.
+ Mảnh xương nhỏ bị dịch chuyển tại vị trí bám của dây chằng chèo trước (trước trong mâm chày).
+ Có thể có sự dịch chuyển ra trước của xương đùi trên xương chày trên phim nghiêng.* Bong điểm bám DCC sau
– Phân loại:
+ Loại 1: không di lệch.
+ Loại 2: di lệch lên trên của điểm bám mâm chày.
+ Loại 3: di lệch hoàn toàn điểm bám mâm chày.
+ Mảnh xương nhỏ bị dịch chuyển tại vị trí bám của dây chằng chèo sau (bờ sau mâm chày – trên phim nghiêng).
+ Trên hình ảnh MRI hoặc CT, có thể thấy một mảnh xương bị gãy gắn liền với dây chằng chéo sau bị co rút hoặc trùng.III. Trật khớp chày mác
– Nguyên nhân: chân khép-gối gấp (nhảy dù khi tiếp đất) / trật ra sau khi ngã ngựa, bị cơ nhị đầu co kéo khỏe / trật lên trên, di lệch cả xương mác do tổn thương cổ chân.
– Phân loại Ogden: trật khớp chày mác gần.
+ Type 1: bán trật (thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên).
+ Type 2: trật ra trước (85%).
+ Type 3: trật sau trong.
+ Type 4: trật lên trên.
+ Trật ra trước ngoài: trên phim thẳng chỏm xương mác dịch chuyển ra phía ngoài và không có sự chồng lấn với mâm chày ngoài. Trên phim nghiêng chỏm xương mác nằm về phía trước đường khớp chày mác gần, hoàn toàn chồng lên xương chày.
+ Trật ra sau trong: trên phim thẳng chỏm xương mác chồng lấn nhiều vào phía trong với mâm chày ngoài. Trên phim nghiêng chỏm xương mác di lệch ra sau so với đường khớp chày mác gần.
+ Trật lên trên: trên phim thẳng chỏm xương mác di lệch lên trên ngang mức mâm chày ngoài.IV. Gãy mắt cá
1. Đại cương
– Chấn thương mắt cá chân đóng vai trò quan trọng trong suy giảm chức năng sau đa chấn thương hoặc chấn thương nhiều vùng, do đó cần đánh giá chi tiết.
– Gãy đầu dưới xương chày và xương mác được chia thành:
+ Gãy xương Pilon: gãy mặt khớp xương chày do lực nén trục.
+ Gãy xương mắt cá: do lực cắt hoặc lực xoắn.2. Phân loại
+ Do cổ chân bị khép và bàn chân xoay trong.
+ Dưới mức của khớp chày-mác
+ Thường gãy ngang mắt cá ngoài tại ngang hay dưới trần xương sên
+ Khớp chày-xương mác còn nguyên vẹn
+ Dây chằng tam giác còn nguyên vẹn.
+ Có thể kèm theo gãy chéo mắt cá trong.
+ Do cổ chân bị dạng và bàn chân xoay ngoài.
+ Gãy chéo mắt cá ngoài do lực nén
+ Lực kéo có thể làm rách dây chằng chày mác dưới gây gãy mắt cá trong hay rách dây chằng Delta.
+ Thường là gãy xoắn
+ Khớp chày-mác thường còn nguyên vẹn, nhưng sự mở rộng của khớp chày-mác.
+ Xương mắt cá trong có thể bị gãy
+ Dây chằng tam giác có thể bị rách, được chỉ ra bởi sự mở rộng của không gian giữa xương mắt cá trong và vòm xương sên.
+ Trên mức độ của khớp chày-mác.
+ Mở rộng khớp chày mác.
+ Gãy xương mắt cá trong hoặc chấn thương dây chằng tam giác thường hiện diện.
+ Các gãy xương Weber C có thể được phân loại thêm như sau: C1: Gãy thân xương mác, đơn giản ; C2: Gãy thân xương mác, phức tạp ; C3: Gãy đầu gần xương mác
+ Gãy xương có thể xuất hiện gần như ở mức độ cổ xương mác và không được nhìn thấy trên phim chụp mắt cá chân.
+ Không ổn định: thường cần phẫu thuật mở và cố định bên trong.
– Loại 2: gãy ngửa khép cổ chân bị vẹo vào trong làm gãy ngang đầu dưới xương mác và gãy chéo, đứng dọc ở mắt cá trong.
– Loại 3: sấp dạng gãy ngang mắt cá trong và gãy chéo xoắn mắt cá ngoài, tại đây đường gãy gần như nằm ngang.
– Loại 4: sấp xoay ngoài, dây chằng mắt cá trong bị rách hay gãy mắt cá trong kèm gãy chéo xoắn xương mác ở trên khớp cổ chân.3. Gãy Dupuytren
– Hiện nay gãy Dupuytren được mô tả với các tổn thương:
+ Gãy mắt cá trong hoặc đứt dây chằng chày sên.
+ Gãy 1/3 dưới xương mác hoặc gãy đầu dưới xương mác ngang khớp chày mác dưới.
+ Đứt dây chằng chày mác dưới, trật khớp chày mác dưới, doãng mộng chày mác.
+ Bán trật khớp chày sên ra ngoài.V. Gãy 2 x cẳng chân
– Là loại gãy dưới hành xương của mâm chày và trên hành xương của trần chày.
– Cơ chế chấn thương gián tiếp: lực chân thương xoắn, vặn, uốn cong làm gãy xương ở vị trí xa nơi lực tác động, đường gãy thường chéo, xoắn.
+ A1. Gãy chéo vát >30°.
+ A2. Gãy chéo váy <30°.
+ A3. Gãy ngang.
+ B1. Gãy xoắn vặn, có mảnh rời.
+ B2. Gãy có mảnh rời chéo vát.
+ B3. Gãy có nhiều mảnh rời nhỏ.
+ C1. Gãy chéo xoắn nhiều mảnh.
+ C2. Gãy ba đoạn.
+ C3. Gãy vụn cả một đoạn xương.
– Đánh giá cả hai đầu xương để đánh giá sự xoay.VI. 1 số loại gãy xương
* Gãy xương dạng sợi tóc
– Gãy xoắn, dưới màng xương, không di lệch.* Gãy khung nhún
– Nếu đứa trẻ ở tư thế đáp xuống tấm bạt cùng thời điểm tấm bạt bật lên => lực tác động từ tấm bạt lò xo có thể gây ra gãy xương chày.* Gãy Pilon
– Chiếm 7-10% gãy xương chày và 1% gãy xương chi dưới.
– Thương tổn xương khớp phức tạp ảnh hưởng lớn tới chức năng của cẳng chân và khớp chày sên, một khớp chịu lực quan trọng của cơ thể. Sự tiếp khớp và trượt tốt giữa xương sên với đầu dưới xương chày và xương mác là quan trọng nhất trong khớp cổ chân. Khi chấn thương nếu mặt khớp di lệch 1mm thì khả năng chịu lực của khớp cổ chân giảm 20-40%.
– Cơ chế chấn thương: gồm cơ chế nén ép sau khi bệnh nhân ngã cao, chống gót xuống nền cứng => lực nén đẩy xương sên vào mặt khớp xương chày hoặc cơ chế xoắn vặn cổ chân trong khi bàn chân đang ở tư thế xoay trong hay xoay ngoài. Thường sau một chấn thương mạnh nên gãy xương mác là 1 tổn thương kèm theo rất hay gặp ở loại gãy này.
– Phân loại (Ruedi và Allgower)
+ Type I: gãy xương với mặt khớp không hoặc ít di lệch
+ Type II: mặt khớp di lệch nhưng vỡ phân mảnh tối thiểu hoặc không vỡ nhiều mảnh
+ Type III: mặt khớp di lệch nhiều, vỡ nhiều mảnh
+ Gãy xương theo chiều dọc kéo dài đến mặt khớp xương chày. Thường bao gồm gãy ngang/chéo của xương chày. Gãy xương có thể chỉ thấy trên một tư thế chụp nếu không di lệch.
+ Có thể lún khớp: Xương chày có thể ngắn hơn so với xương mác. Đánh giá mức độ lún của bề mặt khớp trên các tư thế chụp. Vòm xương sên có thể bị đẩy vào các mảnh vỡ xương chày.
+ Khớp chày-xương mác và xương mác thường bị tổn thương: 75-85% có gãy xương mác xa kèm theo. Có thể thấy mở rộng khớp chày-xương mác.
+ Có thể cho thấy chấn thương dây chằng ở mắt cá chân: mảnh xương ở rìa bên của xương mác hoặc ở rìa trong của xương chày.* Gãy Tillaux
– Là loại gãy đầu dưới xương chày phía trước-ngoài, thuộc loại Salter-Harris 3 – đường gãy chạy từ bề mặt khớp chày-sên qua sụn tiếp hợp.
– Thường gãy xảy ra ở thời điểm sụn tiếp hợp bắt đầu đóng, nên hiếm khi kịp phát sinh rối loạn tăng trưởng.* Gãy xương Toddler
– Vị trí ở 2/3 dưới xương chày.
– Tuổi thường gặp ở trẻ mới biết đi (9 tháng – 3 tuổi).
– Trẻ em thường có các triệu chứng mơ hồ không rõ ràng liên quan đến xương chày, bao gồm đau không đặc hiệu, không thể chịu trọng lượng và đau nhức cục bộ. Có thể không có tiền sử chấn thương.
– Gãy xương xảy ra do xoay trong của phần gần trong khi bàn chân và mắt cá chân cố định (ví dụ: vấp ngã khi đi bộ/chạy, nhảy từ độ cao), với lực xoắn gây ra gãy xương.
– Chẩn đoán có khả năng khó do cả triệu chứng và hình ảnh đều rất tinh tế do xương ít di lệch. Một gãy xương xoắn hoặc chéo không di lệch sẽ được ghi nhận ở phần giữa hoặc xa của thân xương chày.* Gãy Salter Harris
– Sụn tăng trưởng là một vùng sụn mềm ở đầu các xương dài.
– Gãy xương Salter-Harris có thể xảy ra ở bất kỳ xương dài nào, từ ngón tay, ngón chân, đến xương cánh tay và chân.
– Sự phát triển xương của trẻ chủ yếu diễn ra ở các đĩa tăng trưởng. Khi trẻ đã trưởng thành đầy đủ, những vùng này cứng lại thành xương rắn chắc.
– Các tấm sụn tăng trưởng tương đối yếu và có thể bị tổn thương do ngã, va chạm hoặc áp lực quá lớn. Thông thường những gãy xương này xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên khi hoạt động thể thao.
– Gãy xương Salter-Harris lần đầu tiên được phân loại vào năm 1963 bởi các bác sĩ người Canada Robert Salter và W. Robert Harris.
Tài liệu tham khảo
* Three-Column Classification System for Tibial Plateau Fractures: What the Orthopedic Surgeon Wants to Know – Wesley N. Bryson
* Schatzker Classification of Tibial Plateau Fractures: Use of CT and MR Imaging Improves Assessment – B. Keegan Markhardt, Jonathan M. Gross, Johnny Monu
* Ankle fracture – Weber and Lauge-Hansen Classification – Robin Smithuis
* Simplified Diagnostic Algorithm for Lauge-Hansen Classification of Ankle Injuries – Heitor Okanobo, Bharti Khurana, Scott Sheehan
* Ankle Ligaments on MRI: Appearance of Normal and Injured Ligaments – Kiley D. Perrich, Douglas W. Goodwin, Paul J. Hecht
* * Tibial plateau fractures: Review of the classification systems, management, and outcome – S. L. Coleman, R. Parisien, A. Guermazi, A. Murakami; Boston, MA/US
* Radiological classification of tibial plateau fractures: A pictorial essay – M. Winkel; QLD/AU
* The role of CT and MRI in the assessment of tibial plateau fractures according to Schatzker classification – I. Tsifountoudis, M. D. D. Sidiropoulos, I. Kalaitzoglou
* Tibial plateau fractures in CT : What the radiologist needs to know – H. ELASSAAD, N. Touil, O. Kacimi, N. Chikhaoui; CASABLANCA/MA
* Tibial plateau fractures: what the surgeon expects from the radiologist – M. Jarraya, A. Maalej, M. W. Turki
* The role of plain radiography in lower limb trauma in skeletally immature patients – H. Bshar, N. Bashar, C. Landes; Liverpool/UK
# Cập nhật nội dung bài viết & Case lâm sàng 22/12/2024
# Cập nhật nội dung bài viết & Case lâm sàng 17/11/2024
# Cập nhật nội dung bài viết & Case lâm sàng 1/3/2024