I. Đại cương
– Bệnh lao (thường được viết tắt là TB, viết tắt của tubercle bacillus) bao gồm một phổ bệnh rất rộng ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống cơ thể, chủ yếu do Mycobacterium tuberculosis gây ra. Một tỷ lệ nhỏ cũng có thể do Mycobacterium bovis gây ra thông qua việc uống sữa chưa tiệt trùng hoặc tiếp xúc gần với gia súc, bò rừng, hươu hoặc nai sừng tấm và các loài hươu khác bị nhiễm bệnh.
– Sau COVID-19, bệnh lao là bệnh nhiễm trùng gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, tử vong 1,3 triệu người vào năm 2022. Khoảng 1/4 tư dân số thế giới đã bị nhiễm bệnh, nhưng chỉ khoảng 5-10% phát triển thành bệnh. Bệnh lao ảnh hưởng không cân xứng đến những người sống ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, và những người mắc HIV/AIDS có nguy cơ mắc bệnh lao cao gấp khoảng 16 lần. Ước tính có khoảng 5% bệnh nhân HIV bị nhiễm M. tuberculosis
– Bệnh lao phổi sau nguyên phát có sự hình thành hang ở người là nguồn lây truyền chính.
– Bệnh lao kháng đa thuốc (MDR-TB) là một mối đe dọa sức khỏe toàn cầu lớn và ngày càng gia tăng. Chỉ khoảng 40% các trường hợp này nhận được điều trị.
– Các biểu hiện phổi của bệnh lao rất đa dạng và phụ thuộc một phần vào việc nhiễm trùng là nguyên phát hay tái phát. Phổi là nơi nhiễm trùng nguyên phát phổ biến nhất do vi khuẩn lao và là nguồn lây lan chính của bệnh cũng như gây ra tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao.
* Lâm sàng:
– Nhiễm trùng nguyên phát thường không có triệu chứng (đa số các trường hợp), mặc dù một số ít có thể tiến triển thành nhiễm trùng huyết có triệu chứng, dẫn đến bệnh lao kê. Chỉ có 5% bệnh nhân, thường là những người có hệ miễn dịch suy giảm, tiến triển thành bệnh lao nguyên phát tiến triển.
– Bệnh nhân mắc bệnh lao phổi sau nguyên phát thường không có triệu chứng hoặc chỉ có các triệu chứng nhẹ, chẳng hạn như ho khan mãn tính. Ở những bệnh nhân có triệu chứng, các triệu chứng toàn thân nổi bật với sốt, mệt mỏi và giảm cân. Ho có đờm, thường có máu, cũng có thể xuất hiện.
– Đôi khi, bệnh nhân có thể xuất hiện ho ra máu nhiều do sự bào mòn của động mạch phế quản.
– Bệnh nhân AIDS cho thấy các kiểu nhiễm trùng thay đổi tùy thuộc vào số lượng CD4 của họ. Khi số lượng CD4 giảm xuống dưới 350 tế bào/mm³, các biểu hiện phổi xuất hiện tương tự như các nhiễm trùng sau nguyên phát thông thường. Khi số lượng CD4 giảm xuống dưới 200 tế bào/mm³, kiểu nhiễm trùng có khả năng giống với nhiễm trùng nguyên phát hoặc bệnh lao kê. Sự phì đại hạch cũng phổ biến ở giai đoạn này.
* Vị trí tổn thương:
– Nhiễm trùng nguyên phát có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí nào trong phổi ở trẻ em, trong khi ở người lớn có xu hướng xảy ra ở vùng trên hoặc dưới của phổi.
– Nhiễm trùng sau nguyên phát có xu hướng mạnh mẽ xảy ra ở vùng trên của phổi.
– Bệnh lao kê được phân bố đều khắp cả hai phổi.
* Cơ chế bệnh sinh
– Giai đoạn sơ nhiễm: Sau 3-4 tuần nhiễm BK qua các hạt nước bọt li ti → IDR (+). Ổ Ghon + viêm bạch mạch + hạch rốn phổi → phức hợp Ranke. Phần lớn phức hợp sơ nhiễm tạo xơ, có thể vôi hóa. BK theo đường máu đến khu trú ở thùy trên của phổi, đầu trên xương dài đang phát triển, vùng tủy thận.
– Giai đoạn lao bệnh: Mất cân bằng sinh học giữa BK và cơ thể → Sức đề kháng giảm →
Bệnh lao. Thời gian tiềm ẩn giữa lao sơ nhiễm đến khi phát bệnh có thể rất ngắn nhưng cũng có thể kéo dài hàng chục năm.
Tài liệu tham khảo
* Pulmonary Tuberculosis: Up-to-Date Imaging and Management –
Cập nhật Case lâm sàng 22/5/2019
Cập nhật nội dung bài viết & Case lâm sàng 11/3/2019
Cập nhật Case lâm sàng 8/2/2019
Cập nhật nội dung & Case lâm sàng 9/12/2018
Case lâm sàng 11/06/2018